Du lịch biển là hoạt động du lịch được tổ chức phát triển ở vùng địa lý đặc thù là vùng ven biển và hải đảo trên cơ sở khai thác các đặc điểm tiềm năng tài nguyên, môi trường du lịch biển. Chính vì vậy, ảnh hưởng của du lịch biển hoàn toàn giống với những ảnh hưởng của du lịch nói chung đến kinh tế, văn hoá - xã hội và tài nguyên, môi trường. Vùng du lịch là gì? 1. Quan niệm vùng du lịch là gì? Hệ thống lãnh thổ du lịch không thể tồn tại, nếu không có không gian. Trong không gian 2. Nhiệm vụ của phân vùng du lịch là gì? - Nghiên cứu những đặc điểm khu vực của nhu cầu du lịch phụ thuộc vào sở thích, 3. Ý nghĩa của phân vùng du lịch Du lịch văn hóa là gì? Du lịch văn hóa là loại hình du lịch hấp dẫn được khách du lịch đi đến khám phá các địa điểm du lịch văn hóa của một đất nước hay vùng miền. Tài nguyên du lịch (Tourism resources) là cơ sở để phát triển của ngành du lịch, gồm có toàn bộ những nguyên tố được vận dụng để thu Du lịch văn hóa là tập hợp các du lịch liên quan đến sự tham gia của người du lịch với nền văn hoá của một quốc gia hoặc vùng, đặc biệt là lối sống của người dân ở những khu vực địa lý, lịch sử của những người đó, nghệ thuật, kiến trúc, và các yếu tố khác đã giúp hình thành cách sống của họ. Bạn đang xem: Quy hoạch du lịch la gì. 1. Lập kế hoạch du lịch là gì? Quy hoạch là sự phân bố và sắp xếp các hoạt động và các yếu tố sản xuất, dịch vụ và sinh hoạt trong một khu vực lãnh thổ (quốc gia, vùng, tỉnh, huyện). Đối với một số mục đích trong trung hạn Du lịch - một loại hình trải nghiệm đến các vùng đất khác . Du lịch là hoạt động thực hiện chuyến đi của con người đến một vùng đất khác, ngoài nơi cư trú thường xuyên để thăm quan, nghỉ dưỡng, giải trí ở những khu du lịch. x1KuCz. Trung tâm du lịch là một cấp trong hệ thống phân vị du lịch. Hình minh họa Nguồn TapchicongthuongTrung tâm du lịchKhái niệmTrung tâm du lịch là một cấp hết sức quan trọng. Về đại thể, đó là sự kết hợp lãnh thổ của các điểm du lịch cùng loại hay khác loại. Trên lãnh thổ của trung tâm du lịch tập trung rất nhiều điểm du lịch. Nói cách khác, mật độ điểm du lịch trên lãnh thổ này tương đối dày đặc. Mặt khác, trung tâm du lịch gồm các điểm chức năng được đặc trưng bởi sự gắn kết lãnh thổ về mặt kinh tế, kĩ thuật và tổ chức. Nó có khả năng và sức thu hút khách du lịch nội địa, quốc tế rất kiệnĐiều kiện của trung tâm du lịch- Nguồn tài nguyên du lịch tương đối tập trung và được khai thác một cách cao Có thể nguồn tài nguyên không thật đa dạng về loại hình, song điều kiện cần thiết là phải tập trung và có khả năng cuốn khách du Có cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất, kĩ thuật tương đối phong phú để đón, phục vụ và lưu khách lại trong một thời gian dài, thông thường trung tâm du lịch cần có các cảng quốc Có khả năng tạo vùng du lịch rất cao. Về cơ bản, trung tâm du lịch là một hệ thống lãnh thổ du lịch đặc biệt, là hạt nhân của vùng du lịch. Chính nó đã tạo dựng nên bộ khung để cho vùng du lịch hình thành và phát triển. Theo cách nói thông thường, đâu là "cực" để thu hút các lãnh thổ lân cận vào phạm vi tác động của vùng thì là trung tâm du Có qui mô nhất định về mặt diện tích, bao gồm các điểm du lịch kết hợp với các điểm dân cư và môi trường xung quanh. Về độ lớn, trung tâm du lịch có diện tích tương đương với diện tích của một tỉnh, hoặc thành phố trực thuộc trung tâm du lịch là một cấp trong hệ thống phân vị du tiến hành phân vùng du lịch, việc xác định được hệ thống phân vị là một nhiệm vụ quan trọng. Dự án phân vùng du lịch có hiệu quả, mang tính khoa học thực tiễn và hệ thống không phụ thuộc nhiều vào việc xác định hệ thống phân vị. Trên thế giới và ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã sử dụng các hệ thống phân vị du lịch khác M. Buchvarop 1987 đã xây dựng hệ thống phân vị gồm năm cấp điểm du lịch - hạt nhân du lịch - tiểu vùng - á vùng - "Báo cáo tóm tắt Qui hoạch phát triển tổng thể du lịch Việt Nam thời kì 1995 - 2010" các nhà khoa học đã sử dụng hệ thống phân vị gồm năm cấp điểm du lịch - trung tâm du lịch - tiểu vùng du lịch - á vùng du lịch - vùng du Khoản 6, 7, 8, 9, Điều 4, Chương I - Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 còn đưa thêm các đơn vị phân vị trong hệt thống phân vị như khu du lịch, đô thị du lịch.Tài liệu tham khảo Qui hoạch du lịch, Bùi Thị Hải Yến, NXB Giáo dục Việt Nam Phân vùng du lịch là nhiệm vụ quan trọng của quy hoạch du lịch, thường được tiến hành trước các bước quy hoạch khác. Vùng du lịch là đối tượng để quy hoạch du lịch, nhất là đối với các dự án quy hoạch phát triển tổng thể quy hoạch du lịch ở giai đoạn đầu. Vậy vùng du lịch là gì và có đặc điểm, vai trò như thế nào? Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ cung cấp các thông tin về vùng du lịch. Bạn đang xem vùng du lịch là gì Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại 1. Khái niệm vùng du lịch Hệ thống lãnh thổ du lịch không thể tồn tại nếu không có không gian. Trong không gian mà hệ thống lãnh thổ du lịch tồn tại còn có các hệ thống chức năng khác, nó có tác động tới hệ thống lãnh thổ du lịch như tổng thể lãnh thổ sản xuất, các hệ thống dân cư, giao thông liên lạc. Không gian tồn tại của môi trường nuôi dưỡng hệ thống lãnh thổ du lịch bao giờ cũng lớn hơn không gian của hệ thống lãnh thổ du lịch được coi là vùng du lịch – Vùng du lịch bao gồm hai thành phần quan hệ tương hỗ, là hệ thống lãnh thổ du lịch và không gian kinh tế – xã hội bao quanh đảm bảo cho hoạt động hữu hiệu của nó. Như vậy, vùng du lịch là một hệ thống lãnh thổ du lịch không đồng nhất, bao gồm hệ thống lãnh thổ du lịch và môi trường nuôi dưỡng nó. Hiện nay có nhiều quan điểm về vùng du lịch khác nhau. Theo Báo cáo tóm tắt quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam, thì vùng du lịch được quan niệm như sau “Vùng du lịch là một hệ thống lãnh thổ kinh tế- xã hội bao gồm một tập hợp các hệ thống lãnh thổ du lịch, thuộc mọi cấp có quan hệ với nhau và các cơ sở hạ tầng nhằm đảm bảo cho sự hoạt động của hệ thống lãnh thổ du lịch”. Hay ví dụ như theo Pirogiohich “Vùng du lịch nghỉ dưỡng là một hệ thống lãnh thổ kinh tế- xã hội, là toàn bộ các hệ thống lãnh thổ du lịch thuộc tất cả các cấp, các kiểu và các cơ sở cấu trúc thương tầng, bảo đảm chức năng của hệ thống lãnh thổ du lịch và có đặc điểm chung của ngành chuyên môn hóa du lịch và những điều kiện tinh tế- xã hội để phát triển du lịch.” Ngoài ra thì Kotliarov 1978 cũng có quan điểm về vùng du lịch như sau “Vùng du lịch được hiểu là một lãnh thổ hoàn chỉnh kết hợp với các điều kiện, đối tượng và chuyên môn hóa du lịch; không chỉ lãnh thổ để chữa bệnh, nghỉ ngơi mà còn là một cơ chế hành chính phức tạp. Nó có các xí nghiệp nông nghiệp, công nghiệp, vận tải, xây dựng và các cơ sở văn hóa. Nó được hình thành do phân công lao động theo lãnh thổ trong lĩnh vực phi sản xuất.” Trên quan điểm hệ thống, có thể coi vùng du lịch như một tập hợp hệ thống lãnh thổ được tạo nên bởi hai yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau là hệ thống lãnh thổ du lịch và môi trường kinh tế- xã hội xung quanh nhằm đảm bảo cho cả hai hệ thống này hoạt động hiệu quả. Trên lý thuyết, vùng du lịch được tạo thành bởi các yếu tố tạo vùng. Mỗi vùng có những đặc trưng riêng được thể hiện qua lợi thế các nguồn lực phát triển các ngành chuyên môn hóa. Chuyên môn hóa du lịch của vùng được hình thành bởi các yếu tố về vị trí địa lý, tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, nhu cầu về số lượng khác du lịch. Vùng du lịch bao gồm có vùng đã hình thành và vùng đang hình thành. Các vùng du lịch đang trong quá trình hình thành thì các loại hình du lịch chuyên môn hóa chưa rõ nét. Hiện nay, vùng du lịch Việt Nam là vùng du lịch đang hình thành. Đáng xem Ngành Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành học gì? Ra trường làm gì? Làm ở đâu?Dưới góc độ là một bộ phận trong hệ thống phân vùng du lịch, thì vùng du lịch là cấp cao nhất trong hệ thống phân vị. Đó là sự kết hợp lãnh thổ của các á vùng, tiểu vùng, trung tâm, cụm du lịch và điểm du lịch có những đặc trưng riêng về số lượng và chất lượng. Hay tổng quát lại thì vùng du lịch như một tổng thể thống nhất của các đối tượng và hiện tượng tự nhiên, nhân văn, xã hội…. bao gồm hệ thống lãnh thổ du lịch và môi trường kinh tế- xã hội xung quanh với chuyên môn hóa nhất định trong lĩnh vực du lịch. Vùng du lịch có tính hệ thống. Mỗi vùng du lịch là tập hợp các hệ thống lãnh thổ du lịch thuộc mọi cấp, mọi kiểu và môi trường mà nó tồn tại, phát triển, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau giữa các phân hệ, các hệ thống lãnh thổ kinh tế – xã hội khác và các vùng khác. Tính cấp bậc của vùng du lịch Mỗi vùng du lịch có vị trí được xác định trong không gian, có quy mô lãnh thổ, nguồn tài nguyên, nhu cầu du lịch, dân cư, lực lượng sản xuất nhất định, thuộc hệ thống phân vị nhất định, có vị trí nhất định trong hệ thống phân vùng của cả nước vùng lớn, vùng cấp 1, vùng cấp 2 . Xem thêm Phát triển du lịch bền vững là gì? Giải pháp phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam Tính đặc thù của vùng du lịch Mỗi vùng du lịch đều có những đặc điểm về điều kiện tự nhiên, nguồn tài nguyên, điều kiện kinh tế – xã hội riêng nên ảnh hưởng đến việc tổ chức sản xuất lãnh thổ du lịch khác nhau, hình thành nên những ngành chuyên môn hóa riêng phát triển những loại hình du lịch riêng . Tính tổ chức của vùng du lịch Vùng du lịch là hệ thống kinh tế – xã hội và toàn bộ hệ thống du lịch nên việc phân vùng, định hướng sự phát triển ngành du lịch của vùng phải hòa nhập với sự phát triển kinh tế – xã hội của vùng. Vùng du lịch được tạo thành bởi nhiều yếu tố tạo vùng. Các yếu tố chủ yếu là nguồn tài nguyên du lịch, nguồn lao động du lịch, cơ sở vật chất, kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, nhu cầu và số lượng khách du lịch và các yếu tố kinh tế- xã hội. Vùng du lịch theo cấp phân vùng lớn bao gồm nhiều hệ thống lãnh thổ du lịch ở cấp nhỏ hơn vùng. Do đó, cần có sự tổ chức, chỉ đạo chặt chẽ, đồng bộ của các cấp và các cơ quan quản lý của địa phương. Tính tổng hợp của vùng du lịch Bên cạnh những tiềm năng du lịch mang tính đặc sắc để phát triển những ngành chuyên môn hóa, các vùng du lịch thường có nhiều nguồn lực và các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển của nhiều loại hình du lịch. Vì vậy, các dự án phân vùng phải góp phần phát huy tổng hợp các nguồn lực cho sự phát triển du lịch của vùng. Dành cho bạn Bạn có biết Cẩm nang tiếng anh khi đi du lịchTính chuyên môn hóa của vùng du lịch, đây chính là bản sắc của vùng du lịch; làm cho vùng này khác hẳn vùng kia. 3. Vai trò của vùng du lịch Vùng du lịch ra đời nhằm mục đích phát triển du lịch, do đó, vai trò chính của vùng du lịch đó chính là kích thích tiềm năng phát triển du lịch. Khi các vùng du lịch cùng phát triển sẽ kéo theo sự phát triển du lịch của cả hệ thống lãnh thổ. Như ở trên đã viết, vùng du lịch được cấu thành từ các hệ thống lãnh thổ du lịch ở cấp nhỏ hơn vùng, bao trùm lên các vùng nhỏ hơn này. Vùng du lịch đóng vai trò như “nơi chứa đựng” những hệ thống lãnh thổ du lịch nhỏ hơn đó. Nhà nước phân chia thành các vùng du lịch khác nhau nhằm giúp cho việc khuyến khích phát triển vùng du lịch đó dựa trên các điều kiện đặc thù của vùng. Vùng du lịch được xây dựng nhằm chuyên môn hóa khả năng du lịch của khu vực du lịch đó. Mỗi vùng du lịch được quy hoạch dựa trên các đặc thù riêng của vùng đó như vị trí địa lý, khí hậu, địa hình, tình hình kinh tế- xã hội, dân cư,… và quan trọng nhất là tiềm năng du lịch. Dựa trên những điều kiện thực tế đó, để phân định vùng du lịch và định hướng phát triển chuyên môn hóa vùng du lịch đó, tận dụng những lợi thế và tiềm năng để phát triển du lịch. Như các địa điểm có tiềm năng du lịch biển thì có thể phát triển hành vùng du lịch biển,… Trong vùng du lịch sẽ tận dụng được cấu trúc cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, nguồn lao động phù hợp với nguồn tài nguyên, nhu cầu du lịch, có sự điều tiết giữa các yếu tố trên. Đồng thời, vùng du lịch giúp gia tăng mối quan hệ giữa các thành phần trong vùng và mối quan hệ giữa các hệ thống lãnh thổ du lịch khác. Xem thêm Khuyến mại du lịch là gì? Pháp luật về khuyến mại du lịch tại Việt Nam Từ việc xác định vùng du lịch giúp xác định được cơ cấu và sự phân hóa tối ưu theo lãnh thổ của vùng đó. Du lịch gắn liền với kinh tế- xã hội, khi du lịch phát triển thì sẽ kéo theo những sự phân hóa về kinh tế- xã hội. Từ sự phân hóa về kinh tế, xã hội sẽ xác định cơ cấu tổ chức lãnh thổ theo sự phân hóa đó để đảm bảo sự hài hóa. Thông qua thực tiễn hoạt động vùng du lịch, các cơ quan quản lý nhà nước sẽ tìm ra những hướng đi phù hợp để phát triển vùng du lịch đó và phát triển du lịch trên toàn quốc. Đồng thời có những điều chỉnh kịp thời trong quản lý nhà nước về du lịch, có các định hướng, các chính sách phát huy lợi thế của vùng du lịch. Từ cơ sở hoạt động này phát triển du lịch vùng là làm tiền đề cho quy hoạch du lịch, lựa chọn vùng đầu tư. Phân vùng du lịch là nhiệm vụ quan trọng của quy hoạch du lịch, thường được tiến hành trước các bước quy hoạch khác. Vùng du lịch là đối tượng để quy hoạch du lịch, nhất là đối với các dự án quy hoạch phát triển tổng thể quy hoạch du lịch ở giai đoạn đầu. Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại 1. Khái niệm vùng du lịch2. Đặc trưng cơ bản của vùng du lịch3. Vai trò của vùng du lịch 1. Khái niệm vùng du lịch Hệ thống lãnh thổ du lịch không thể tồn tại nếu không có không gian. Trong không gian mà hệ thống lãnh thổ du lịch tồn tại còn có các hệ thống chức năng khác, nó có tác động tới hệ thống lãnh thổ du lịch như tổng thể lãnh thổ sản xuất, các hệ thống dân cư, giao thông liên lạc. Không gian tồn tại của môi trường nuôi dưỡng hệ thống lãnh thổ du lịch bao giờ cũng lớn hơn không gian của hệ thống lãnh thổ du lịch được coi là vùng du lịch – Vùng du lịch bao gồm hai thành phần quan hệ tương hỗ, là hệ thống lãnh thổ du lịch và không gian kinh tế – xã hội bao quanh đảm bảo cho hoạt động hữu hiệu của nó. Như vậy, vùng du lịch là một hệ thống lãnh thổ du lịch không đồng nhất, bao gồm hệ thống lãnh thổ du lịch và môi trường nuôi dưỡng nó. Hiện nay có nhiều quan điểm về vùng du lịch khác nhau. Theo Báo cáo tóm tắt quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam, thì vùng du lịch được quan niệm như sau “Vùng du lịch là một hệ thống lãnh thổ kinh tế- xã hội bao gồm một tập hợp các hệ thống lãnh thổ du lịch, thuộc mọi cấp có quan hệ với nhau và các cơ sở hạ tầng nhằm đảm bảo cho sự hoạt động của hệ thống lãnh thổ du lịch”. Hay ví dụ như theo Pirogiohich “Vùng du lịch nghỉ dưỡng là một hệ thống lãnh thổ kinh tế- xã hội, là toàn bộ các hệ thống lãnh thổ du lịch thuộc tất cả các cấp, các kiểu và các cơ sở cấu trúc thương tầng, bảo đảm chức năng của hệ thống lãnh thổ du lịch và có đặc điểm chung của ngành chuyên môn hóa du lịch và những điều kiện tinh tế- xã hội để phát triển du lịch.” Ngoài ra thì Kotliarov 1978 cũng có quan điểm về vùng du lịch như sau “Vùng du lịch được hiểu là một lãnh thổ hoàn chỉnh kết hợp với các điều kiện, đối tượng và chuyên môn hóa du lịch; không chỉ lãnh thổ để chữa bệnh, nghỉ ngơi mà còn là một cơ chế hành chính phức tạp. Nó có các xí nghiệp nông nghiệp, công nghiệp, vận tải, xây dựng và các cơ sở văn hóa. Nó được hình thành do phân công lao động theo lãnh thổ trong lĩnh vực phi sản xuất.” Trên quan điểm hệ thống, có thể coi vùng du lịch như một tập hợp hệ thống lãnh thổ được tạo nên bởi hai yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau là hệ thống lãnh thổ du lịch và môi trường kinh tế- xã hội xung quanh nhằm đảm bảo cho cả hai hệ thống này hoạt động hiệu quả. Trên lý thuyết, vùng du lịch được tạo thành bởi các yếu tố tạo vùng. Mỗi vùng có những đặc trưng riêng được thể hiện qua lợi thế các nguồn lực phát triển các ngành chuyên môn hóa. Chuyên môn hóa du lịch của vùng được hình thành bởi các yếu tố về vị trí địa lý, tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, nhu cầu về số lượng khác du lịch. Vùng du lịch bao gồm có vùng đã hình thành và vùng đang hình thành. Các vùng du lịch đang trong quá trình hình thành thì các loại hình du lịch chuyên môn hóa chưa rõ nét. Hiện nay, vùng du lịch Việt Nam là vùng du lịch đang hình thành. Dưới góc độ là một bộ phận trong hệ thống phân vùng du lịch, thì vùng du lịch là cấp cao nhất trong hệ thống phân vị. Đó là sự kết hợp lãnh thổ của các á vùng, tiểu vùng, trung tâm, cụm du lịch và điểm du lịch có những đặc trưng riêng về số lượng và chất lượng. Hay tổng quát lại thì vùng du lịch như một tổng thể thống nhất của các đối tượng và hiện tượng tự nhiên, nhân văn, xã hội…. bao gồm hệ thống lãnh thổ du lịch và môi trường kinh tế- xã hội xung quanh với chuyên môn hóa nhất định trong lĩnh vực du lịch. 2. Đặc trưng cơ bản của vùng du lịch Vùng du lịch có tính hệ thống. Mỗi vùng du lịch là tập hợp các hệ thống lãnh thổ du lịch thuộc mọi cấp, mọi kiểu và môi trường mà nó tồn tại, phát triển, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau giữa các phân hệ, các hệ thống lãnh thổ kinh tế – xã hội khác và các vùng khác. Tính cấp bậc của vùng du lịch Mỗi vùng du lịch có vị trí được xác định trong không gian, có quy mô lãnh thổ, nguồn tài nguyên, nhu cầu du lịch, dân cư, lực lượng sản xuất nhất định, thuộc hệ thống phân vị nhất định, có vị trí nhất định trong hệ thống phân vùng của cả nước vùng lớn, vùng cấp 1, vùng cấp 2 . Tính đặc thù của vùng du lịch Mỗi vùng du lịch đều có những đặc điểm về điều kiện tự nhiên, nguồn tài nguyên, điều kiện kinh tế – xã hội riêng nên ảnh hưởng đến việc tổ chức sản xuất lãnh thổ du lịch khác nhau, hình thành nên những ngành chuyên môn hóa riêng phát triển những loại hình du lịch riêng . Xem thêm Điều kiện để được công nhận là khu du lịch Tính tổ chức của vùng du lịch Vùng du lịch là hệ thống kinh tế – xã hội và toàn bộ hệ thống du lịch nên việc phân vùng, định hướng sự phát triển ngành du lịch của vùng phải hòa nhập với sự phát triển kinh tế – xã hội của vùng. Vùng du lịch được tạo thành bởi nhiều yếu tố tạo vùng. Các yếu tố chủ yếu là nguồn tài nguyên du lịch, nguồn lao động du lịch, cơ sở vật chất, kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, nhu cầu và số lượng khách du lịch và các yếu tố kinh tế- xã hội. Vùng du lịch theo cấp phân vùng lớn bao gồm nhiều hệ thống lãnh thổ du lịch ở cấp nhỏ hơn vùng. Do đó, cần có sự tổ chức, chỉ đạo chặt chẽ, đồng bộ của các cấp và các cơ quan quản lý của địa phương. Tính tổng hợp của vùng du lịch Bên cạnh những tiềm năng du lịch mang tính đặc sắc để phát triển những ngành chuyên môn hóa, các vùng du lịch thường có nhiều nguồn lực và các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển của nhiều loại hình du lịch. Vì vậy, các dự án phân vùng phải góp phần phát huy tổng hợp các nguồn lực cho sự phát triển du lịch của vùng. Tính chuyên môn hóa của vùng du lịch, đây chính là bản sắc của vùng du lịch; làm cho vùng này khác hẳn vùng kia. 3. Vai trò của vùng du lịch Vùng du lịch ra đời nhằm mục đích phát triển du lịch, do đó, vai trò chính của vùng du lịch đó chính là kích thích tiềm năng phát triển du lịch. Khi các vùng du lịch cùng phát triển sẽ kéo theo sự phát triển du lịch của cả hệ thống lãnh thổ. Như ở trên đã viết, vùng du lịch được cấu thành từ các hệ thống lãnh thổ du lịch ở cấp nhỏ hơn vùng, bao trùm lên các vùng nhỏ hơn này. Vùng du lịch đóng vai trò như “nơi chứa đựng” những hệ thống lãnh thổ du lịch nhỏ hơn đó. Nhà nước phân chia thành các vùng du lịch khác nhau nhằm giúp cho việc khuyến khích phát triển vùng du lịch đó dựa trên các điều kiện đặc thù của vùng. Vùng du lịch được xây dựng nhằm chuyên môn hóa khả năng du lịch của khu vực du lịch đó. Mỗi vùng du lịch được quy hoạch dựa trên các đặc thù riêng của vùng đó như vị trí địa lý, khí hậu, địa hình, tình hình kinh tế- xã hội, dân cư,… và quan trọng nhất là tiềm năng du lịch. Dựa trên những điều kiện thực tế đó, để phân định vùng du lịch và định hướng phát triển chuyên môn hóa vùng du lịch đó, tận dụng những lợi thế và tiềm năng để phát triển du lịch. Như các địa điểm có tiềm năng du lịch biển thì có thể phát triển hành vùng du lịch biển,… Trong vùng du lịch sẽ tận dụng được cấu trúc cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, nguồn lao động phù hợp với nguồn tài nguyên, nhu cầu du lịch, có sự điều tiết giữa các yếu tố trên. Đồng thời, vùng du lịch giúp gia tăng mối quan hệ giữa các thành phần trong vùng và mối quan hệ giữa các hệ thống lãnh thổ du lịch khác. Từ việc xác định vùng du lịch giúp xác định được cơ cấu và sự phân hóa tối ưu theo lãnh thổ của vùng đó. Du lịch gắn liền với kinh tế- xã hội, khi du lịch phát triển thì sẽ kéo theo những sự phân hóa về kinh tế- xã hội. Từ sự phân hóa về kinh tế, xã hội sẽ xác định cơ cấu tổ chức lãnh thổ theo sự phân hóa đó để đảm bảo sự hài hóa. Xem thêm Khu du lịch là gì? Đặc điểm và điều kiện được công nhận? Thông qua thực tiễn hoạt động vùng du lịch, các cơ quan quản lý nhà nước sẽ tìm ra những hướng đi phù hợp để phát triển vùng du lịch đó và phát triển du lịch trên toàn quốc. Đồng thời có những điều chỉnh kịp thời trong quản lý nhà nước về du lịch, có các định hướng, các chính sách phát huy lợi thế của vùng du lịch. Từ cơ sở hoạt động này phát triển du lịch vùng là làm tiền đề cho quy hoạch du lịch, lựa chọn vùng đầu tư. Các vùng du lịch Việt Nam là tiêu chí phân vùng trên cơ sở tuyến hay điểm du lịch và dựa trên sự liên kết những điểm tương đồng hay các điểm du lịch. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 chia ra 7 vùng du lịch thay vì 3 vùng như chiến lược đến năm 2010, các vùng du lịch gồm Trung du miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc, vùng Bắc Trung Bộ, vùng duyên hải Nam Trung Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ và vùng Tây Nam Bộ.[1][2]Nội dung chính Show Mục lụcCác tiêu chí phân vùng du lịch Việt NamSửa đổiVùng trung du và miền núi phía BắcSửa đổiVùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông BắcSửa đổiVùng Bắc Trung BộSửa đổiVùng Duyên hải Nam Trung BộSửa đổiVùng Tây NguyênSửa đổi adsbygoogle = [].push{}; Vùng Đông Nam BộSửa đổiĐồng bằng sông Cửu LongSửa đổiTham khảoSửa đổiChú thíchSửa đổiVideo liên quan Bản đồ các vùng du lịch ở Việt "Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030" đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam phê duyệt ngày 30/12/2011 [3][4] Mục lục 1 Các tiêu chí phân vùng du lịch Việt Nam 2 Vùng trung du và miền núi phía Bắc 3 Vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc 4 Vùng Bắc Trung Bộ 5 Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ 6 Vùng Tây Nguyên 7 Vùng Đông Nam Bộ 8 Đồng bằng sông Cửu Long 9 Tham khảo 10 Chú thích Các tiêu chí phân vùng du lịch Việt NamSửa đổi Loại hình sản phẩm du lịch độc đáo. Điều kiện môi trường tự nhiên về du lịch. Điều kiện môi trường nhân văn, đặc biệt là các di sản văn hóa, lịch sử, các lễ hội truyền thống. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội, phát triển đô thị hóa và mức thu nhập bình quân đầu người. Điều kiện kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên ngành, đặc biệt là hệ thống khách sạn, nhà hàng, tổ chức vui chơi giải trí, đi lại, thông tin liên lạc.“Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” ngày 22/1/2013 xác định rõ Việt Nam có 7 vùng du lịch với các trọng điểm phát triển du lịch như sau[5][6] Vùng trung du và miền núi phía BắcSửa đổi Bao gồm 14 tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Phú Thọ, Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn và Bắc Giang. Vùng này có 5 trọng điểm du lịch là Sơn La - Điện Biên gắn với Mộc Châu, hồ Sơn La, cửa khẩu quốc tế Tây Trang, di tích lịch sử Điện Biên Phủ và Mường Phăng. Lào Cai gắn với cửa khẩu quốc tế Lào Cai, khu nghỉ mát Sa Pa, Phan Xi Phăng và vườn quốc gia Hoàng Liên. Phú Thọ gắn với lễ hội Đền Hùng và hệ thống di tích thời đại Hùng Vương, du lịch hồ Thác Bà. Thái Nguyên - Lạng Sơn gắn với hồ Núi Cốc, di tích ATK Định Hóa, Tân Trào, khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng, khu nghỉ mát Mẫu Sơn. Hà Giang gắn với công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn, cảnh quan Mèo Vạc, Mã Pí Lèng, Na Hang…Vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông BắcSửa đổi Gồm Thủ đô Hà Nội và các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Hải Phòng và Quảng Ninh, gồm 3 trọng điểm du lịch là Thủ đô Hà Nội gắn với hệ thống di tích lịch sử văn hóa nội thành và các cảnh quan tự nhiên vùng phụ cận. Quảng Ninh - Hải Phòng gắn với cảnh quan biển đảo Đông Bắc đặc biệt là Hạ Long - Cát Bà, Vân Đồn, Đồ Sơn. Ninh Bình gắn với Tam Cốc - Bích Động, Hoa Lư, Tràng An, Vân Long, Cúc Phương, Tam Chúc - Ba Sao và quần thể di tích, cảnh quan vùng phụ Bắc Trung BộSửa đổi Gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế. Vùng này có 3 địa bàn trọng điểm du lịch là Thanh Hóa và phụ cận gắn với điểm du lịch quốc gia Thành Nhà Hồ, Lam Kinh, Bến En và đô thị du lịch Sầm Sơn. Nam Nghệ An - Bắc Hà Tĩnh gắn với Cửa Lò, Kim Liên, Đồng Lộc, cửa khẩu Cầu Treo, núi Hồng - sông Lam, Xuân Thành… Quảng Bình - Quảng Trị gắn với Phong Nha - Kẻ Bàng, biển Cửa Tùng - Cửa Việt, đảo Cồn Cỏ, cửa khẩu Lao Bảo và hệ thống di tích chiến tranh chống Mỹ. Thừa Thiên HuếVùng Duyên hải Nam Trung BộSửa đổi Gồm các tỉnh Quảng Nam, TP. Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Vùng này có 3 địa bàn trọng điểm du lịch là Đà Nẵng - Quảng Nam gắn với Sơn Trà, Hải Vân, Hội An, Mỹ Sơn… Bình Định - Phú Yên - Khánh Hòa gắn với các bãi biển Phương Mai, Đầm Ô Loan, vịnh Nha Trang, Cam Ranh… Bình Thuận gắn với biển Mũi Né, đảo Phú Quý…Vùng Tây NguyênSửa đổi gồm các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng. Vùng này có 3 trọng điểm du lịch là Thành phố Đà Lạt gắn với hồ Tuyền Lâm, Đan Kia - Suối Vàng. Đắk Lắk gắn với vườn quốc gia Yokđôn và không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Gia Lai - Kon Tum gắn với cửa khẩu quốc tế Bờ Y, Măng Đen, Yaly. adsbygoogle = [].push{}; Vùng Đông Nam BộSửa đổi Gồm TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước, Tây Ninh. Vùng này có 3 trọng điểm du lịch Thành phố Hồ Chí Minh gắn với khu rừng sác Cần Giờ và hệ thống di tích lịch sử văn hóa nội thành. Tây Ninh gắn với cửa khẩu quốc tế Mộc Bài, núi bà Đen, hồ Dầu Tiếng. Thành phố Vũng Tàu gắn với Long Hải, Phước Hải, Côn bằng sông Cửu LongSửa đổi Gồm các tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Tiền Giang, Hậu Giang và TP. Cần Thơ. Vùng này có 4 trọng điểm du lịch Tiền Giang - Bến Tre gắn với du lịch miệt vườn Thới Sơn. Cần Thơ - Kiên Giang gắn với biển đảo Phú Quốc, Hà Tiên. Đồng Tháp - An Giang gắn với Tứ giác Long Xuyên, vườn quốc gia Tràm Chim. Cà Mau gắn với U Minh - Năm Căn - mũi Cà khảoSửa đổi Theo viện nghiên cứu phát triển du lịch Việt Nam - Tài liệu Quy hoạch Du lịch. Quy hoạch du lịch - Trần Văn Thông - Đại học Văn thíchSửa đổi ^ Du lịch Việt Nam hướng đến năm 2020[liên kết hỏng] ^ Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030[liên kết hỏng] ^ “Phê duyệt "Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030"”. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2012. ^ “Nguyên văn "Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030"”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2012. ^ Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” ngày 22/1/2013 ^ Về việc phê duyệt "Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030[liên kết hỏng] Tuyến du lịch là một cấp trong hệ thống phân vị du lịch. Hình minh họa Nguồn du lịchKhái niệmTuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không Khoản 9, Điều 4, Chương I - Luật Du lịch Việt Nam năm 2005.Tuyến du lịch Quốc gia và tuyến du lịch địa phươngCác tuyến du lịch với các điều kiện sau đây được công nhận là tuyến du lịch Quốc gia- Nối kết các khu du lịch, điểm du lịch, trong đó có khu du lịch; điểm du lịch quốc gia; có tính chất liên vùng, liên tỉnh; kết nối với các cửa Có biện pháp bảo vệ cảnh quan môi trường và cơ sở dịch vụ phục vụ khách du lịch dọc theo du lịch có đủ các điều kiện sau đây được công nhận là tuyến du lịch địa phương - Nối các khu du lịch, điểm du lịch trong phạm vi địa Có biện pháp bảo vệ cảnh quan môi trường và cơ sở dịch vụ phục vụ khách du lịch dọc tuyến Khoản 1, 2, Điều 26, Chương IV - Luật Du lịch Việt Nam năm 2005.Tuyến du lịch là một cấp trong hệ thống phân vị du tiến hành phân vùng du lịch, việc xác định được hệ thống phân vị là một nhiệm vụ quan trọng. Dự án phân vùng du lịch có hiệu quả, mang tính khoa học thực tiễn và hệ thống không phụ thuộc nhiều vào việc xác định hệ thống phân vị. Trên thế giới và ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã sử dụng các hệ thống phân vị du lịch khác M. Buchvarop 1987 đã xây dựng hệ thống phân vị gồm năm cấp điểm du lịch - hạt nhân du lịch - tiểu vùng - á vùng - "Báo cáo tóm tắt Qui hoạch phát triển tổng thể du lịch Việt Nam thời kì 1995 - 2010" các nhà khoa học đã sử dụng hệ thống phân vị gồm năm cấp điểm du lịch - trung tâm du lịch - tiểu vùng du lịch - á vùng du lịch - vùng du Khoản 6, 7, 8, 9, Điều 4, Chương I - Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 còn đưa thêm các đơn vị phân vị trong hệt thống phân vị như khu du lịch, đô thị du lịch.Tài liệu tham khảo Qui hoạch du lịch, Bùi Thị Hải Yến, NXB Giáo dục Việt Nam

vùng du lịch là gì